Báo cáo kiểm toán là gì? Báo cáo kiểm toán đem lại lợi ích gì? Có những dạng báo cáo kiểm toán nào về kiểm toán Báo cáo tài chính. Cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây từ IDA!
Sau khi kết thúc cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính (BCTC), Kiểm toán viên (KTV) cần lập và phát hành báo cáo kiểm toán. Về bản chất, Báo cáo kiểm toán là báo cáo do KTV lập và công bố để trình bày ý kiến nhận xét về BCTC được kiểm toán. Trong báo cáo kiểm toán, KTV phải nêu rõ ý kiến nhận xét về BCTC được kiểm toán trên phương diện phản ánh (hoặc trình bày) trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu, tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), và việc tuân thủ các quy định pháp lý có liên quan.
“Phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu” được hiểu là ý kiến kiểm toán là một sự đảm bảo rằng BCTC được kiểm toán đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu; nhưng không đảm bảo tuyệt đối rằng không có bất kỳ một sai sót nào trong BCTC đã được kiểm toán. Hay nói cách khác, KTV chỉ nhận xét trên các yếu tố trọng yếu của BCTC. Căn cứ vào kết quả kiểm toán, KTV có thể đưa ra một trong các dạng ý kiến kiểm toán sau:
Ý kiến chấp nhận toàn phần
Ý kiến chấp nhận toàn phần thể hiện KTV cho rằng BCTC phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán, và phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành (hoặc được chấp nhận).
Ý kiến chấp nhận toàn phần được áp dụng cho cả trường hợp BCTC được kiểm toán có những sai sót nhưng đã được KTV phát hiện và đơn vị đã điều chỉnh theo ý kiến của KTV.
Cần lưu ý rằng: ý kiến chấp nhận toàn phần không có nghĩa là BCTC được kiểm toán là hoàn toàn đúng, mà có thể có sai sót nhưng sai sót đó là không trọng yếu.
Ý kiến ngoại trừ
KTV đưa ra ý kiến kiểm toán ngoại trừ khi KTV cho rằng BCTC đã trình bày một cách trung thực, hợp lý, ngoại trừ đối với một vài khía cạnh riêng biệt nào đó của chúng.
Các khía cạnh riêng biệt này có thể bao gồm:
– KTV kết luận BCTC vẫn còn tồn tại một số sai phạm trọng yếu nhưng ở mức độ nhỏ và không lan tỏa tới tổng thể BCTC; hoặc
– Khi phạm vi kiểm toán bị giới hạn dẫn đến KTV không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp làm cơ sở đưa ra ý kiến nhận xét và ảnh hưởng có thể có của các sai phạm chưa được phát hiện là trọng yếu nhưng không lan tỏa tới tổng thể BCTC.
Điều này cũng có nghĩa là nếu các yếu tố do KTV nêu ra trong báo cáo kiểm toán có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC thì BCTC đó đã không phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu.
Ý kiến từ chối (không thể đưa ra ý kiến)
Ý kiến từ chối được đưa ra khi hậu quả của việc giới hạn phạm vi kiểm toán là quan trọng hoặc liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục trên BCTC tới mức mà KTV không thể thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để có thể cho ý kiến về BCTC được kiểm toán.
KTV thể hiện ý kiến từ chối bằng câu: “Theo ý kiến của chúng tôi, vì các lý do nêu trên, chúng tôi không thể đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính…”.
Ý kiến không chấp nhận (ý kiến trái ngược)
Ý kiến không chấp nhận được đưa ra khi dựa trên đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp, KTV kết luận các sai phạm (chưa được điều chỉnh) là có ảnh hưởng trọng yếu và ở mức độ lớn (lan tỏa) đối với BCTC.
Trong trường hợp này, các vấn đề mà KTV không đồng ý với đơn vị là quan trọng và ảnh hướng lớn tới các khoản mục trên BCTC.
Ý kiến trái ngược được thể hiện bằng mẫu câu: “Theo ý kiến của chúng tôi, vì ảnh hưởng trọng yếu của những vấn đề nêu trên, báo cáo tài chính phản ánh không trung thực và không hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu…”.
Hiểu rõ ý nghĩa của các dạng Báo cáo kiểm toán sẽ giúp người sử dụng thông tin nắm bắt được mức độ trung thực hợp lý của các thông tin được trình bày trên BCTC của đơn vị, từ đó tránh đưa ra các quyết định sai lầm.
Tài liệu tham khảo:
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700.